Trong thế giới giải trí của Hollywood, bên cạnh các bộ phim có kinh phí khủng thu về tiền khủng thì cũng có không ít những bộ phim kinh phí chưa tới 1 triệu USD, dù không có những hình ảnh long lanh, kỹ xảo hấp dẫn hay dàn diễn viên nổi tiếng… nhưng vẫn trở thành “bom tấn” càn quét các phòng vé trên thế giới. Điều đó cho thấy sự “công bằng” và tự do trong nghệ thuật khi tiền đầu tư không phải là yếu tố chính tạo dựng nên thành công doanh thu cho bộ phim.
Phim kinh dị và những “ám ảnh” chi tiết “bớt kinh dị”.
1) American Graffiti (Tạm dịch Graffiti kiểu Mỹ) -1973
George Lucas là đạo diễn lừng danh của làng điện ảnh Mỹ với loạt phim nổi tiếng Star Wars (Chiến tranh giữa các vì sao). Thế nhưng, không chỉ có khả năng quay phim hành động với kinh phí lớn, đạo diễn Lucas đã làm nên thành công với bộ phim kinh phí thấp American Graffiti. Bộ phim với bối cảnh, phong cách, âm nhạc của đầu thập niên 60 tại Mỹ đã giúp George Lucas trở thành một trong những “hạt giống” đạo diễn tiềm năng lúc bấy giờ, ngang tài với đạo diễn Steven Spielberg và Francis Ford Coppola.
Được “sản xuất” vào năm 1973 và chỉ có ngân sách 777.000 USD nhưng bộ phim có tổng doanh thu trên toàn thế giới là 140 triệu USD. American Graffiti từng bị một loạt các hãng phim của Hollywood như 20th Century Fox, Paramount Pictures…từ chối sản xuất và chỉ có hãng Universal Pictures quyết định đầu tư. Với doanh thu “khủng”, bộ phim đã khiến hãng Universal Pictures cảm thấy “hài lòng” khi đã lựa chọn đúng đắn. Bên cạnh đó, American Graffiti còn là một trong những bộ phim tiên phong cho dòng phim “teen” và được đề cử giải Oscar cho phim hay nhất.
2) Mad Max -1979
Mad Max đem lại sự nổi tiếng cho diễn viên Mel Gibson
Mad Max là bộ phim hành động đầy kịch tính có kinh phí thấp nhưng lại đem về nhiều thành công cho làng điện ảnh Australia. Với ngân sách làm phim chỉ vỏn vẹn có 200.000 USD nhưng bộ phim đã đem về 99,75 triệu USD doanh thu trên toàn thế giới. Đấy là còn chưa kể tới bộ phim còn bị thâm hụt doanh thu do bị cấm chiếu tại Thụy Điển và New Zealand. Bên cạnh đó, cũng nhờ có bộ phim mà nam diễn viên chính Mel Gibson từ một người vô danh trở thành sao nổi tiếng, được đứng trong hàng ngũ những diễn viên được trả thù lao cao nhất tại Hollywood. Bộ phim đã mở đường cho làn sóng điện ảnh xứ sở chuột túi xâm nhập vào thị trường phim quốc tế.
3) Open Water (tạm dịch: Trôi dạt) – 2003
Dựa trên sự kiện có thật xảy ra với đôi vợ chồng người Mỹ vào năm 1998 khi đi lặn bị bỏ rơi trên biển do trưởng đoàn đếm sai số người tham gia, Open Water là bộ phim kinh dị xoay quanh câu chuyện này. Kinh phí làm phim chỉ có 500.000 USD nhưng đã được Lions Gate Entertainment mua lại với giá 2,5 triệu USD sau khi ra mắt tại Liên hoan phim Sundance. Sau đó, Lions Gate đã đầu tư thêm 8 triệu USD cho khâu quảng cáo và phát hành bộ phim. Không phụ sự đầu tư của Lions Gate, bộ phim đạt doanh thu gần 55 triệu USD trên toàn cầu (trong đó doanh thu tại thị trường Bắc Mỹ đạt gần 30 triệu USD). Một trong những nguyên nhân khiến Open Water ghi điểm trong mắt khán giả là các cảnh quay trong bộ phim đã dùng cá mập thật, tạo nên cảm giác chân thực và sống động cho người xem.
4) Napoleon Dynamite -2004
Đây là một bộ phim hài xoay quanh những rắc rối tuổi teen (trong độ tuổi 15) được ra mắt lần đầu tiên tại Liên hoan phim Sundance vào tháng 1/2004. Khoảng 5 tháng sau, phim được phát hành một cách hạn chế ra bên ngoài. Tuy nhiên, với nội dung lôi cuốn, phim đã được lan truyền rộng rãi sau đó và bất ngờ đạt doanh thu toàn thế giới lên tới 46,14 triệu USD trong khi kinh phí sản xuất cho bộ phim chỉ có 400.000 USD.
Diễn viên chính của phim Jon Heder lúc đầu chỉ được nhận mức thù lao 1.000 USD, nhưng sau thành công vang dội của Napoleon Dynamite, Heder đã được chia một phần lợi nhuận “khủng” của bộ phim. Cho đến bây giờ, đôi khi ở trên đường nếu bạn vẫn bắt gặp hình ảnh có người mặc áo phông “Vote for Pedro” thì sẽ hiểu, bộ phim có ảnh hưởng sâu rộng thế nào bởi cụm từ này có “nguồn gốc” trong phim.
5) Once - 2007
Once là bộ phim của Ireland nói về chuyện tình yêu pha trộn với âm nhạc của 2 nghệ sỹ. Để có thể ra mắt bộ phim tới khán giả, nhà sản xuất chỉ có ngân sách trong khoảng 150.000 USD. Để tích kiệm tối đa các chi phí, những bức ảnh trong phim được chụp dưới nền ánh sáng tự nhiên và được quay trong nhà của một người “quen” trong đoàn phim. Tuy nhiên, dù mức kinh phí thấp như thế, Once vẫn đem lại nhiều thành công ngoài mong đợi khi nhận được nhiều lời khen từ các nhà phê bình cũng như đem về doanh thu ấn tượng, đạt tới 19 triệu USD. Ngoài ra, bộ phim cũng đạt được 2 giải thưởng quan trọng là giải Independent Spirit cho phim nước ngoài hay nhất và ca khúc “Falling Slowly” đã giành giải Oscar cho nhạc phim xuất sắc nhất.
6) Paranormal Activity (tạm dịch: Hiện tượng siêu nhiên) – 2007
Paranormal Activity là bộ phim kinh dị siêu nhiên của Mỹ ra mắt vào năm 2007, do Oren Peli viết kịch bản và đạo diễn. Bộ phim nói về một cặp vợ chồng trẻ chuyển vào sống trong 1 căn nhà mới và bị ám ảnh bởi những hiện tương siêu nhiên trong nhà của mình. Bộ phim được trình bày theo phong cách “found footage” (toàn bộ sự kiện trên phim do nhân vật thu lại bằng máy quay hoặc thông qua các thiết bị ghi hình khác).
Lúc đầu, bộ phim được dàn dựng với ngân sách eo hẹp, chỉ có 150.000 USD. Sau khi được chiếu như một phim độc lập tại liên hoan phim năm 2007, phim được hãng Paramount Pictures mua bản quyền với giá 350.000 USD và được sửa đổi lại phần kết. Với kinh phí thấp như vậy, bộ phim đã tạo ra một bất ngờ lớn khi tổng doanh thu trên toàn thế giới là 193 triệu USD (trong đó gần 108 triệu USD tại các rạp ở Mỹ). Sau sự thành công này, Paranormal Activity tiếp tục được “trình làng” với các phần tiếp theo và cũng “bội thu” phòng vé và trở thành loạt phim tâm điểm cho các mùa Halloween. Tuy nhiên, các phần sau vẫn chưa thực sự “tỏa sáng” khi không thể bứt phá, vượt tập đầu tiên về doanh thu.
7) The Blair Witch Project (tạm dịch: Truy tìm phù thủy Blair) – 1999
Tương tự với phim Paranormal Activity, The Blair Witch Project là bộ phim kinh dị cũng được quay theo phong cách “found footage” (còn gọi là giả tài liệu) với kinh phí ít ỏi 25.000 USD nhưng lại trở thành “bom tấn” khi có doanh thu gấp gần 10.000 lần chi phí làm phim (doanh thu toàn cầu đạt 248,64 triệu USD). Bộ phim được quay trong 8 ngày đêm, với những đoạn phim nghiệp dư do 3 diễn viên tự quay bằng camera cầm tay dài khoảng 19 giờ.
Một trong những yếu tố đem lại thành công cho bộ phim là nhờ vào chiến dịch quảng cáo khiến nhiều khán giả không thể đoán được rằng liệu có phải bộ phim được dựa trên 1 video nhật ký của chính những người mất tích thật hay không. Trong khi đó, cũng có một số khán giả lại hoàn toàn tin rằng bộ phim dựa trên những cảnh quay có thật và cho rằng các nhân vật trong phim thực sự đã mất tích. Họ chỉ biết rằng mình đã bị lừa cho đến khi thấy các diễn viên chính xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn sau sự thành công vang dội của bộ phim.
Theo Sống Mới